Thời gian phong tỏa tại nhiều quốc gia trong giai đoạn COVID-19 đã chứng minh: phần lớn cuộc sống con người phụ thuộc vào tính di động (mobility).
Đó là sự di chuyển của con người, hàng hóa, tiền bạc và dữ liệu trong các thành phố, quốc gia cũng như quốc tế. Xã hội chỉ vận hành bình thường nếu chúng ta có thể di chuyển. Khi bạn ngừng đạp xe, nó sẽ ngã ngay lập tức. Nền văn minh của chúng ta chính là chiếc xe đạp đó.
Bây giờ hãy đặt câu hỏi giả sử: Bạn muốn gia đình ở đâu vào năm 2050? Con cái lớn lên trong môi trường như thế nào? Một thành phố công nghệ cao, một trung tâm kinh tế dịch vụ sôi động với văn hóa cởi mở và sôi động, hay một nơi chú trọng vào chất lượng môi trường? Liệu bạn có quan tâm đến cơ chế quản lý? Một số địa điểm thu thập dữ liệu dân cư với nhiều mục đích, trong khi nơi khác sẽ cho phép dân cư có quyền riêng tư tới mức độ nào đó. Một nơi đã có kịch bản ứng phó với biến đổi khí hậu hay là nơi sẽ bị nhấn chìm trong lũ hoặc cạn kiệt nguồn nước ngọt?
Để có thể trả lời, chúng ta cần cái nhìn tổng thể về các nhân tố chính trị, kinh tế, công nghệ, xã hội và môi trường, dự đoán cách chúng giao thoa khác nhau. Và điều đó không thể có được nếu chỉ theo dõi những bản tin ngắn trên truyền thông đại chúng.
Những câu hỏi trên còn là vấn đề mà lực lượng lao động trẻ tuổi (và có trình độ) quan tâm. Nó sẽ quyết định bản đồ nhân loại thay vì là biên giới cố định của các quốc gia. Một vùng đất sẽ ra sao nếu cạn kiệt tài nguyên con người? Chính phủ phải làm gì để giữ chân người bản địa và thu hút người bên ngoài? Trên thực tế, không hẳn là biên giới chính trị, mà chính là dòng chảy con người và nguồn lực bên trong định hình các quốc gia, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong.
Địa lý nhân văn
Dịch Chuyển của Parag Khanna, tác giả cuốn sách nổi tiếng Tương Lai Thuộc Về Châu Á, xoay quanh ngành địa lý nhân văn (human geography), bao gồm những chủ đề nóng như nhân khẩu học (cân bằng tuổi và giới tính dân số) và di cư (sự tái định cư của con người), nghiên cứu thành phần dân tộc học và sự thích nghi mang tính di truyền của con người với môi trường đang thay đổi. Người tị nạn, khí hậu và người di cư kinh tế, hôn nhân đa chủng tộc và thậm chí sự tiến hóa đều là một phần của ngành địa lý nhân văn.
Tại sao ngày nay địa lý nhân văn lại quan trọng đến như vậy?Vì loài người đang đi trên một hành trình khó khăn và không còn có thể coi mối quan hệ ổn định giữa các lớp địa lý như: tự nhiên (nơi trú ngụ của nước, năng lượng, khoáng sản và lương thực), chính trị (nơi biên giới lãnh thổ là thứ phân ranh giới các quốc gia), và kinh tế (nơi đặt cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp).
Chưa bao giờ, sự tác động qua lại giữa các lớp này lại căng thẳng và phức tạp đến như vậy. Hoạt động kinh tế của con người đã làm gia tăng nạn phá rừng và lượng khí thải công nghiệp, thủ phạm gây ra hiện tượng ấm lên toàn cầu, mực nước biển dâng cao và hạn hán khủng khiếp. 4 trong số những thành phố quan trọng nhất của Mỹ có nguy cơ cao nhất: Thành phố New York và Miami có thể bị nhấn chìm, trong khi Los Angeles đang dần cạn nước và San Francisco bị bao trùm bởi những vụ cháy rừng. Những phản ứng dây chuyền đang giáng lên đầu hàng triệu người Mỹ cũng có thể xảy ra với hàng tỉ người ở châu Á.
Sự trỗi dậy đầy ngoạn mục về kinh tế của châu Á trong những thập kỷ gần đây được thúc đẩy bởi sự gia tăng dân số, đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh đến chóng mặt. Tất cả đã làm tăng lượng khí thải của lục địa này, khiến mực nước biển dâng cao, đe dọa những quần thể dân cư đông đúc của các siêu đô thị duyên hải trên Vành đai Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Một cách nào đấy, có thể nói, sự trỗi dậy của châu Á đang đẩy nhanh sự chìm xuống của châu Á – điều có thể khiến ngày càng nhiều người châu Á vượt qua biên giới và châm ngòi cho những xung đột về nguồn lực.
Những quốc gia giàu có trên khắp Bắc Mỹ và châu Âu có 300 triệu (và còn tăng nữa) người đang già đi và cơ sở hạ tầng đang xuống cấp – nhưng có khoảng 2 tỉ người trẻ thiếu việc làm ở châu Mỹ Latinh, Trung Đông và châu Á vốn có khả năng chăm sóc người già và duy trì các dịch vụ công cộng. Đất canh tác còn rất nhiều ở Canada và Nga vốn thưa người, trong khi hàng triệu nông dân châu Phi phải bỏ xứ mà đi vì hạn hán. Có những quốc gia sở hữu hệ thống chính trị xuất sắc nhưng thưa dân như Phần Lan và New Zealand, trong khi hàng trăm triệu người phải sống khổ sở dưới những chế độ chuyên chế hoặc trong các trại tị nạn.
Vậy có gì đáng ngạc nhiên không khi số lượng người đã và đang di cư ở mức kỷ lục?
Tính di động là định mệnh?
“Hầu hết các thành phố thịnh vượng đều có mạng lưới giao thông công cộng dày đặc, ví dụ như xe lửa, xe buýt và những nền tảng chia sẻ xe, tất cả hoạt động đồng thời như một hệ thống di động đô thị”. (Trích)
Những đứa trẻ của thế kỷ XX thừa biết 2 câu châm ngôn “Địa lý là định mệnh” và “Nhân khẩu học là định mệnh”. Câu trước ngụ ý rằng vị trí và tài nguyên quyết định số phận, trong khi câu sau cho rằng quy mô dân số và cơ cấu tuổi là 2 yếu tố quan trọng nhất. Cùng với nhau, chúng nói cho con người biết họ đang mắc kẹt ở đâu. Tốt hơn hết hãy hy vọng đó là một quốc gia đông dân và giàu tài nguyên.
Loài người có nên tiếp tục tin vào thuyết định mệnh như vậy không? Tất nhiên là không. Địa lý không phải là định mệnh. Địa lý là do con người quyết định.
“Trong cuốn Connectography (Địa Lý Kết Nối) xuất bản năm 2016, tôi đã đề xuất một chân lý thứ ba để giải thích câu chuyện của nền văn minh toàn cầu: “Tính kết nối là định mệnh”. Các mạng lưới cơ sở hạ tầng rộng lớn của chúng ta – một bộ xương ngoài cơ học bao gồm những tuyến đường sắt, lưới điện, cáp internet… – cho phép con người, hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và ý tưởng di chuyển nhanh chóng trên một quy mô hành tinh. Tính kết nối và tính di động bổ sung cho nhau, là 2 mặt của cùng một đồng xu, và cùng với nhau, chúng cung cấp một chân lý thứ 4 vốn sẽ xác định tương lai của chúng ta: Tính di động là định mệnh”. (Trích)
Sau khi đọc cuốn sách này, trong tương lai, khi đột nhiên thấy có nhiều thông tin khuyến khích chọn một vùng đất nào đó làm nơi dừng chân, bạn đã có thể tự phân tích và đưa ra chọn lựa riêng.